Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2018

TRỞ LẠI BÊN BỜ SÔNG CÔN - Truyện ngắn của Nguyễn Hữu Duyên



     Ông ngồi im lặng. Trước mặt ông là di ảnh người phụ nữ trên bàn thờ, người mà hơn 55 năm trước, đã đưa ông qua nhánh phía nam của sông Côn trong tình huống không kém phần nguy hiểm trên chiếc sõng câu để về hầm bí mật được đào ngay trong buồng nhà chị. Lỗ thông hơi nằm giữa bụi tre rất rộng cách nhà chị khoảng 10 mét, nên địch không thể phát hiện được. Căn hầm này được  đội công tác của xã đào với sự cảnh giới của chị.
Khi những người thả lưới, soi đèn bắt cá làm rộn một khúc sông, ông đứng dậy bước đến bàn thờ, thò tay rút tờ giấy học trò được xếp cẩn thận dưới lư hương. Ông lật qua lật lại rất nhiều lần, vì ông không tin, những chiến công của chị chỉ là những dòng chữ được viết nắn nót trên hai mặt của một tờ giấy học trò thôi sao? Bất chợt, ông ngồi xuống, vai ông rung lên không ngừng… Ông nhớ, ngày ấy, cơ sở chuyển cho ông cái hộp quẹt diêm, trong đó có 100 đồng và mảnh giấy chị ghi có đôi chỗ dính máu: “Chị gửi chú H. và đội công tác chút ít để mua gạo”. Sau này ông mới biết, khi bị tra tấn đến chết đi sống lại nhiều lần, chị nghĩ mình khó có thể sống được nhưng chị vẫn nghĩ anh em đội công tác sẽ khó khăn, nên chị lần vào chiếc áo ngực lấy cái hộp quẹt diêm được chuẩn bị sẵn trao cho một cơ sở cách mạng đóng vai người thăm nuôi, để đến được tay ông…
55 năm trước, ngày ông về miền Nam theo Nghị quyết của Trung ương, và trở lại quê hương xây dựng các cơ sở cách mạng, theo sự phân công của Tỉnh ủy chuẩn bị cho cuộc đấu tranh vũ trang  với địch. Ròng rã trên đường Trường Sơn hơn một tháng, ông dò dẫm xuống căn cứ cách mạng V.C, lần theo đường rừng ông về lại A.T, nơi ngày xưa, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, đơn vị ông đã từng đóng quân.  Và thông qua những người kháng chiến cũ, ông đã gặp chị, được chị đưa về căn hầm bí mật trong nhà mình nuôi giấu ông. Do điều kiện thiếu thốn cũng như sự khắc nghiệt của nước độc rừng sâu trong một thời gian dài, ông bị sốt liên tục. Làm thế nào để chữa bệnh mà tránh được tai mắt của địch, không bị lộ là điều vô cùng khó khăn. Cũng may, chị có người anh con ông bác ruột là đông y sĩ hành nghề hốt thuốc Bắc ở phố chợ xóm trên nên việc chữa bệnh cho ông được xuôi thuyền mát mái. Chỉ có một việc là chị phải đóng vai người bệnh để che mắt thiên hạ. Hết bệnh, chị hốt thêm  thuốc bổ, và sẵn   gà có ở nhà, năm ba bữa, chị nấu cháo bồi dưỡng cho ông…

Những thước phim của một thời quá khứ lại hiện về trong ông như chỉ mới xảy ra hôm qua. Nó lại dắt ông về một thời ác liệt của cuộc chiến tranh, chia nhau từng nắm cơm vắt của chị, cái đòn bánh tét, vài chiếc bánh in đêm giao thừa, và những đêm cõng gạo về căn cứ nuôi quân, chuẩn bị bước vào chiến dịch diệt cứ, phá đồn, cùng những thời khắc chôn vội những đồng đội hy sinh…
Cây cừa nước như già đi với thời gian. Ông bước tới, sờ thật nhẹ, cứ như sợ nó sẽ biến mất theo dòng nước. Ông không còn nhớ là bao nhiêu lần, nhưng ông biết rất rõ, đây là nơi chị cột chiếc sõng đưa ông, đội công tác và bộ đội qua sông.
Hòa bình đã bốn mươi năm, thế nhưng không năm nào là ông không về nơi đây để thăm chị mỗi khi địa phương tổ chức kỷ niệm ngày giải phóng quê hương. Nhưng lần này thì chị đã không còn. Tra tấn của địch không giết được chị ngay, tuy nhiên hậu quả của nó thật hiểm độc. Chị đã chết một cách dần mòn vì suy nhược toàn thân. Khi ở độ tuổi xuân xanh, chị cống hiến sức trẻ cho sự nghiệp cách mạng. Khi nước nhà thống nhất, chị chẳng còn trẻ và mang nhiều bệnh tật nên vẫn sống một mình trong ngôi nhà cấp 4 bên bờ sông Côn. Nơi đó, chị đã cưu mang nhiều con người góp phần giải phóng quê hương. Có người hằng năm còn về thăm chị, nhưng có người mãi mãi nằm lại với Đất Mẹ chỉ ở tuổi 18, đôi mươi. Trong chiến tranh, ông là đứa em kết nghĩa được chị nuôi nấng cưu mang. Những gì ông có được hôm nay đều có bóng dáng của chị. Và nếu không có chị và những người như chị thì làm sao ông và nhiều đồng chí của ông qua được những đợt càn quét, truy sát của địch…  Quê hương được giải phóng, ông làm lãnh đạo huyện, đi công tác có xe đưa đón, có lương, có chế độ tem phiếu, có đường sữa, có thịt… Những khi đi công tác xuống xã, gặp chị, ông thường nhắc chị đi làm sổ thương binh, làm báo cáo thành tích để nhận huân chương kháng chiến, thì chị chỉ cười và bảo: “Công chị có là bao mà làm báo cáo thành tích. Bao nhiêu người nằm xuống cho vùng đất này có đòi hỏi gì đâu”. Rồi, chị hỏi ông, vết thương cũ của cậu độ này có ổn không? Chị lảng sang chuyện khác, ông bực lắm, nhưng ông không còn lạ gì tính khí của chị. Sống im lặng. Không đòi hỏi. Chẳng kể công nuôi ông nọ bà kia. Và cũng chẳng hề trách cứ ai quên căn hầm ngày xưa đã từng chắt chiu nuôi nấng mình. Ông nói: “Em được khám, chữa bệnh theo định kỳ nên cũng đỡ. Em chỉ lo cho chị”. Chị thì vẫn ở nhà cấp 4, vẫn trồng rau, nuôi gà, trỉa bắp, trỉa đỗ ven sông… như ngày còn chiến tranh. Chị đâu có gì khác. Tiền bạc, ngày xưa chị dồn hết để mua thuốc tây, thuốc hút, gạo, mắm, vải bô lo cho bộ đội, du kích. Giờ chị sống chừng ấy. Chị sinh ra và lớn lên ở đây. Cha mẹ chị chết sớm, để lại chị và đứa em trai. Trận đánh ác liệt năm 1972 tại cứ điểm cầu P.N, đứa em trai cũng hy sinh khi chưa đến tuổi 30. Những ngày còn chiến tranh, chị lại không cô đơn. Lúc nào trong căn hầm bí mật cũng có người. Bộ não chị luôn hoạt động, cảnh giới cho anh em, rồi lo cháo, lo rau. Chị bận bịu cả ngày. Khi đất nước hòa bình, ngó trước ngó sau chỉ có mình chị. Nửa đêm tối lửa tắt đèn cũng chỉ mình chị. Khi chị qua đời, bà con làng xóm tổ chức chôn cất, ma chay. 
Trước đây nhiều phóng viên báo, đài đến gặp chị để viết về một thời chị làm cơ sở cách mạng, và những trận đòn tra tấn dã man của địch đối với chị thì chị chỉ đưa một tờ giấy học trò, trên đầu có ghi dòng chữ: Tôi tên… sinh năm 19… và trên hai vách tường chưa kịp tô láng, chỉ có tấm bằng Tổ quốc ghi công ghi tên người em trai duy nhất của chị.

Đứng lặng trước di ảnh của chị, cầm trên tay tờ giấy chị tự khai thành tích trong kháng chiến, ông thấy mình như có lỗi với chị, dù chị chưa bao giờ trách cứ ông, kể cả thời gian ông làm lãnh đạo ở địa phương. Lẽ ra, với quyền lực được phân công, ngày ấy ông có thể giúp chị được nhiều hơn, từ việc sửa sang lại cái nhà, đến việc làm hồ sơ chứng nhận thương binh, hồ sơ đề nghị khen thưởng huân huy chương kháng chiến… Ông lao vào vòng xoáy công việc  của những năm sau ngày giải phóng. Ông lo được cho nhiều người, nhưng…
Rồi ông lại ngồi xuống chiếc ghế được làm bằng mây rừng ở căn cứ A.T hồi anh em tặng chị thời chiến tranh. Những hình ảnh của quá khứ đè nặng lấy ông, nhất là  những đêm cõng gạo, chuyển vũ khí, tải thương binh qua sông Côn về căn cứ A.T, và quang cảnh ngôi nhà đơn sơ của chị, nơi một thời nuôi dưỡng, bảo vệ anh và đồng đội anh từng ngày, từng giờ.
55 năm từ ngày ông đến đây, và 40 năm sau kết thúc cuộc chiến tranh. Kẻ còn người mất. Kẻ nhớ người quên. Nhưng với chị thì ông không bao giờ quên. Bởi tấm lòng của chị thấm đẫm tình yêu xứ sở. Tình yêu đó được đánh đổi bằng xương máu của bao người vì sự nghiệp giải phóng quê hương.

 Và bây giờ ở trong ngôi nhà của chị sau 40 năm, ông lại tự thấy mình xấu hổ, thật đáng trách. Trên bàn thờ, chị vẫn một nụ cười nhân hậu, và đẹp, như ánh trăng 16 lấp lánh trên dòng sông Côn phía sau nhà.
Tháng 7. 2015
N.H.D

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét